Từng là cây mọc tự nhiên trên các triền núi cao, sơn tra được thuần hóa và trở thành một trong những loại cây chủ lực giúp đồng bào vùng cao thoát nghèo. Một tin vui cho người trồng sơn tra của Sơn La, trong kế hoạch xuất khẩu nông sản năm 2019 của tỉnh sẽ có khoảng 1.000 tấn quả sơn tra tươi. Kỳ vọng đây sẽ là “chìa khóa” mở cánh cửa đưa quả sơn tra xuất ngoại, mang “vàng” về cho đồng bào các dân tộc vùng cao.
Từng là cây mọc tự nhiên trên các triền núi cao, sơn tra được thuần hóa và trở thành một trong những loại cây chủ lực giúp đồng bào vùng cao thoát nghèo. Một tin vui cho người trồng sơn tra của Sơn La, trong kế hoạch xuất khẩu nông sản năm 2019 của tỉnh sẽ có khoảng 1.000 tấn quả sơn tra tươi. Kỳ vọng đây sẽ là “chìa khóa” mở cánh cửa đưa quả sơn tra xuất ngoại, mang “vàng” về cho đồng bào các dân tộc vùng cao.
Cụ thể hóa các cơ chế, chính sách hỗ trợ cây giống trong triển khai các chương trình, dự án trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc, giảm thiểu thiên tai, giúp người dân các xã, bản vùng cao sinh kế - sơn tra là một trong những loại cây được tỉnh lựa chọn đưa vào trồng tại địa bàn các xã vùng cao các huyện Thuận Châu, Mường La và Bắc Yên từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Trải qua gần 30 năm, cây sơn tra đã và đang mang lại sức sống mới cho vùng cao, góp phần làm giảm số hộ nghèo, tăng số hộ giàu mỗi năm, từng bước thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng thấp và vùng cao.
Cụ thể hóa các cơ chế, chính sách hỗ trợ cây giống trong triển khai các chương trình, dự án trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc, giảm thiểu thiên tai, giúp người dân các xã, bản vùng cao sinh kế - sơn tra là một trong những loại cây được tỉnh lựa chọn đưa vào trồng tại địa bàn các xã vùng cao các huyện Thuận Châu, Mường La và Bắc Yên từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Trải qua gần 30 năm, cây sơn tra đã và đang mang lại sức sống mới cho vùng cao, góp phần làm giảm số hộ nghèo, tăng số hộ giàu mỗi năm, từng bước thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng thấp và vùng cao.
Từ một bản “4 không” (không điện, không đường, không trường, không trạm), Pha Luông sau 15 năm "xuống núi" đang từng ngày khởi sắc, thu nhập bình quân đạt 14 triệu đồng/người/năm, có hộ thu nhập cả trăm triệu đồng mỗi năm, cuộc sống đang từng ngày ổn định và phát triển.
Bản Pha Luông của đồng bào dân tộc Mông đã định cư và sinh sống dưới chân đỉnh Pha Luông hùng vĩ, nằm giữa biên giới hai nước Việt Nam - Lào, thuộc địa phận xã Chiềng Sơn (Mộc Châu). Hơn 3 thập niên trôi qua, người dân bản Pha Luông đã yên tâm định cư, làm ăn tấn tới trên mảnh đất biên cương này, không còn giữ tập quán du canh, du cư song hành cùng nghèo đói của những năm 80 thế kỷ trước nữa.
Bản Pha Luông của đồng bào dân tộc Mông đã định cư và sinh sống dưới chân đỉnh Pha Luông hùng vĩ, nằm giữa biên giới hai nước Việt Nam - Lào, thuộc địa phận xã Chiềng Sơn (Mộc Châu). Hơn 3 thập niên trôi qua, người dân bản Pha Luông đã yên tâm định cư, làm ăn tấn tới trên mảnh đất biên cương này, không còn giữ tập quán du canh, du cư song hành cùng nghèo đói của những năm 80 thế kỷ trước nữa.
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, Co Mạ (Thuận Châu) được ví như là “thủ phủ” của cây thuốc phiện. Việc triệt phá cây thuốc phiện, tìm hướng “trồng cây gì, nuôi con gì” để thay thế là câu hỏi cả một thời gian dài đầy trăn trở tìm câu trả lời. Với sự quan tâm về mọi mặt của Đảng, Nhà nước, cùng nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, đời sống vật chất, tinh thần của người dân nơi đây ngày một cải thiện, diện mạo Trung tâm cụm 6 xã vùng cao Thuận Châu đã và đang thay đổi rõ nét.
Vào những năm 80 của thế kỷ trước, Co Mạ (Thuận Châu) được ví như là “thủ phủ” của cây thuốc phiện. Việc triệt phá cây thuốc phiện, tìm hướng “trồng cây gì, nuôi con gì” để thay thế là câu hỏi cả một thời gian dài đầy trăn trở tìm câu trả lời. Với sự quan tâm về mọi mặt của Đảng, Nhà nước, cùng nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, đời sống vật chất, tinh thần của người dân nơi đây ngày một cải thiện, diện mạo Trung tâm cụm 6 xã vùng cao Thuận Châu đã và đang thay đổi rõ nét.
Trước đây, khi gia đình có người bị tiêu chảy, nhức đầu, hay cảm cúm, chúng tôi phải vượt 3 quả đồi, 2 thung lũng để về Trạm Y tế xã nhận thuốc. Nhưng từ khi có túi thuốc y tế bản, chúng tôi không phải trèo đèo lội suối để có viên thuốc chữa bệnh. Cảm ơn Đảng, Nhà nước đã quan tâm hỗ trợ túi thuốc cho bản chúng tôi. Bà Lò Thị Sáy, ở bản Sản, xã Chiềng Khoang, Quỳnh Nhai, năm nay gần 80 tuổi chia sẻ như vậy khi được nhận thuốc chữa các bệnh thông thường từ nhân viên y tế bản.
Trước đây, khi gia đình có người bị tiêu chảy, nhức đầu, hay cảm cúm, chúng tôi phải vượt 3 quả đồi, 2 thung lũng để về Trạm Y tế xã nhận thuốc. Nhưng từ khi có túi thuốc y tế bản, chúng tôi không phải trèo đèo lội suối để có viên thuốc chữa bệnh. Cảm ơn Đảng, Nhà nước đã quan tâm hỗ trợ túi thuốc cho bản chúng tôi. Bà Lò Thị Sáy, ở bản Sản, xã Chiềng Khoang, Quỳnh Nhai, năm nay gần 80 tuổi chia sẻ như vậy khi được nhận thuốc chữa các bệnh thông thường từ nhân viên y tế bản.
Xác định tiếp cận những thành tựu của cách mạng công nghệ 4.0 là con đường ngắn nhất để các doanh nghiệp bứt phá, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới, sáng tạo các sản phẩm dịch vụ, giảm chi phí trong sản xuất - lưu thông, gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường... Nắm bắt xu hướng, một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã đầu tư ứng dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt những kết quả đáng khích lệ.
Xác định tiếp cận những thành tựu của cách mạng công nghệ 4.0 là con đường ngắn nhất để các doanh nghiệp bứt phá, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới, sáng tạo các sản phẩm dịch vụ, giảm chi phí trong sản xuất - lưu thông, gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường... Nắm bắt xu hướng, một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã đầu tư ứng dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt những kết quả đáng khích lệ.
Cùng Đoàn công tác của tỉnh tham quan, học tập kinh nghiệm xây dựng nghĩa trang tại hai tỉnh Phú Thọ và Hải Dương, chúng tôi thực sự ấn tượng về công tác quy hoạch, xây dựng công viên nghĩa trang - hình thức an táng văn minh, hiện đại.
Cùng Đoàn công tác của tỉnh tham quan, học tập kinh nghiệm xây dựng nghĩa trang tại hai tỉnh Phú Thọ và Hải Dương, chúng tôi thực sự ấn tượng về công tác quy hoạch, xây dựng công viên nghĩa trang - hình thức an táng văn minh, hiện đại.
Đã lâu chúng tôi mới có dịp trở lại bản Cò Nòi, xã Cò Nòi (Mai Sơn) - vùng đất huyền thoại, một phần trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, nút giao thông quan trọng để các mũi tiến công của quân và dân ta cùng vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm... vươn tới lòng chảo Mường Thanh. Ngã ba Cò Nòi trở thành chiến địa, thực dân Pháp ngày đêm bắn phá ác liệt, âm mưu cắt đứt huyết mạch giao thông của ta. Vùng đất khói lửa năm xưa, nay bước vào công cuộc xây dựng kinh tế sôi động. Người dân nơi này đang phát huy truyền thống cách mạng, chung sức, đồng lòng, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới, xây dựng quê hương giàu đẹp.
Đã lâu chúng tôi mới có dịp trở lại bản Cò Nòi, xã Cò Nòi (Mai Sơn) - vùng đất huyền thoại, một phần trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, nút giao thông quan trọng để các mũi tiến công của quân và dân ta cùng vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm... vươn tới lòng chảo Mường Thanh. Ngã ba Cò Nòi trở thành chiến địa, thực dân Pháp ngày đêm bắn phá ác liệt, âm mưu cắt đứt huyết mạch giao thông của ta. Vùng đất khói lửa năm xưa, nay bước vào công cuộc xây dựng kinh tế sôi động. Người dân nơi này đang phát huy truyền thống cách mạng, chung sức, đồng lòng, đoàn kết xây dựng cuộc sống mới, xây dựng quê hương giàu đẹp.
Tình cờ một lần tới Bảo tàng tỉnh, tôi nghe thuyết minh viên giới thiệu về ông Quàng Đôn (tên thật là Quàng Văn Đức) thành viên tổ Thanh niên cứu quốc (Mú nóm chất mương), là người vinh dự được chọn phiên dịch bài nói chuyện của Bác Hồ tại Lễ mít-tinh ở Thuận Châu năm 1959. Vậy là tôi đi tìm gặp các nhân chứng, thu thập tư liệu để biết thêm về ông.
Tình cờ một lần tới Bảo tàng tỉnh, tôi nghe thuyết minh viên giới thiệu về ông Quàng Đôn (tên thật là Quàng Văn Đức) thành viên tổ Thanh niên cứu quốc (Mú nóm chất mương), là người vinh dự được chọn phiên dịch bài nói chuyện của Bác Hồ tại Lễ mít-tinh ở Thuận Châu năm 1959. Vậy là tôi đi tìm gặp các nhân chứng, thu thập tư liệu để biết thêm về ông.